BỘ TƯ PHÁP
BỘ TƯ PHÁP
VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT
|
VỤ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
- HÀNH CHÍNH
|
ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU
LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
2012
PHẦN I.
SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính nói riêng là
công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước nhằm duy trì trật tự, kỷ
cương trong quản lý hành chính của Nhà nước. Đây cũng là vấn đề trực tiếp liên
quan đến cuộc sống hàng ngày của nhân dân, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội hết sức quan tâm.
Được ban hành đầu tiên vào năm 1989, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (Pháp
lệnh XLVPHC) đã từng bước được hoàn thiện góp phần quan trọng trong công
tác phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với các vi phạm hành chính ở nước ta,
bảo đảm trật tự quản lý nhà nước, an toàn xã hội để phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, qua hơn 10 năm thực hiện, Pháp lệnh XLVPHC đã bộc lộ những hạn chế,
bất cập đòi hỏi phải khẩn trương nghiên cứu, điều chỉnh, nhằm đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn phát
triển mới. Cụ thể là:
Thứ nhất,
mặc dù Pháp lệnh XLVPHC năm 1989 đã qua 4 lần sửa đổi, bổ sung (1995, 2002,
2007,
2008), nhưng vẫn bộc lộ hạn chế, bất cập thiếu các quy định bảo đảm tính dân
chủ, tính khách quan trong việc xem xét, quyết định việc xử phạt, áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính khác; thủ tục xử phạt chưa bảo đảm tính công khai,
các hình thức xử phạt được áp dụng chưa linh hoạt.v.v..., làm giảm hiệu quả giữ
gìn trật tự, kỷ cương quản lý hành chính của đất nước, an ninh, trật tự an toàn
xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh phòng, chống có
hiệu quả đối với vi phạm hành chính, tội phạm trong thời kỳ mới.
Thứ hai,
trong thời gian qua, một số luật chuyên ngành (như: Luật Chứng khoán, Luật Quản
lý thuế, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng) đã
trực tiếp quy định về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức phạt,
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Để góp phần giải quyết cơ bản vấn đề
này đòi hỏi phải có sự đổi mới trong việc quy định về thẩm quyền, hình thức và
thủ tục xử phạt vi phạm hành chính ở tầm một đạo luật mang tính luật gốc, nhằm
bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật về XLVPHC.
Thứ ba,
yêu cầu “thể chế kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hoá các
quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; bảo đảm quyền con người, quyền tự do,
dân chủ của công dân...” là chủ trương lớn, xuyên suốt trong nhiều nghị quyết
của Đảng, đòi hỏi Nhà nước cần phải quy phạm hóa các quyền tự do dân
chủ, quyền con người bằng các quy định của một đạo luật.
Thứ tư,
Pháp lệnh XLVPHC được ban hành từ năm 1989 trong bối cảnh nước ta chưa hội nhập
sâu vào nền kinh tế thế giới; nhiều điều ước quốc tế chúng ta chưa có điều kiện
gia nhập. Mặt khác, chúng ta cũng chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho
việc thực hiện các nghĩa vụ mà Việt Nam đã cam kết trong các điều ước quốc tế
như Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, các công ước quốc tế về quyền
con người năm 1966 (Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá và xã hội và
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị).
Những hạn chế, bất cập nêu trên đặt ra yêu cầu phải khẩn trương soạn thảo và ban
hành Luật Xử lý vi phạm hành chính (Luật XLVPHC ).
Luật XLVPHC được ban hành với mục tiêu nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của
Pháp lệnh XLVPHC; góp phần bảo đảm trật tự, kỷ cương quản lý hành chính, an
ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; đấu
tranh phòng, chống có hiệu quả đối với vi phạm hành chính, tội phạm trong thời
kỳ mới; khắc phục tối đa tình trạng thiếu thống nhất và chồng chéo trong
hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận
lợi cho việc thực hiện các nghĩa vụ mà Việt Nam đã cam kết trong các điều ước
quốc tế; đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của đời sống kinh tế - xã hội của đất
nước trong giai đoạn phát triển mới.
PHẦN II.
QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT
Luật XLVPHC được xây dựng trên cơ sở bốn quan điểm chỉ đạo sau đây:
1. Thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách hệ
thống pháp luật, cải cách tư pháp và cải cách hành chính được xác định trong
các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI,
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, theo
hướng: “Hình thành cơ chế pháp lý để
Chính phủ thực hiện quyền yêu cầu xem xét, xử lý bằng thủ tục tư pháp đối với
mọi vi phạm nghiêm trọng được phát hiện trong quá trình quản lý, tổ chức thi
hành pháp luật”, “tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo
đảm sự bình đẳng của công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án”.
2.
Quy định đầy đủ, toàn diện các vấn đề về xử lý vi phạm hành chính, bảo đảm kế
thừa những quy định đã được thực tiễn kiểm nghiệm, khắc phục một cách
cơ bản những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật xử lý vi phạm hành chính
hiện hành thông qua việc tổng kết đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính trong những năm qua.
3. Tăng cường tính công khai, minh bạch và bảo đảm dân chủ trong trình tự, thủ
tục xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp xử lý hành chính; bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đặc biệt là người chưa
thành niên.
4. Bảo đảm phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và đáp ứng yêu cầu cải cách bộ
máy nhà nước; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp về lĩnh vực này của các
nước trong khu vực và trên thế giới.
PHẦN III.
BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT XỬ LÝ VI
PHẠM HÀNH CHÍNH
I. BỐ CỤC CỦA LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Luật Xử lý vi phạm hành chính được bố cục thành 06 phần, 12 chương, 142 điều.
1. Phần thứ nhất: Những quy định chung
(từ Điều 1 đến Điều 20);
2. Phần thứ hai: Xử phạt vi phạm hành chính
(gồm 03 chương, 68 điều, từ Điều 21 đến Điều 88);
3. Phần thứ ba: Các biện pháp xử lý hành chính
(gồm 05 chương, 30 điều từ Điều 89 đến Điều 118);
4. Phần thứ tư: Các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính
(gồm 2 chương, 14 điều từ Điều 119 đến Điều 132);
5. Phần thứ năm: Những quy định đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính
(gồm 2 chương, 8 điều từ Điều 133 đến Điều 140)
6. Phần thứ sáu: Điều khoản thi hành
(gồm 2 điều Điều 141 và Điều 142)
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
A. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
1.
Về một số nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính
Qua thực tế thi
hành pháp
luật
về XLVPHC,
các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính được quy định trong Pháp lệnh XLVPHC năm
2002 đã được khẳng định là cần thiết và đúng đắn, do đó được tiếp tục quy định
tại Luật XLVPHC. Bên cạnh đó, một số nguyên tắc mới được quy định trong Luật
XLVPHC như: nguyên tắc bảo đảm công bằng, công khai, khách quan, tôn trọng quyền
giải trình của cá nhân, tổ chức; nguyên tắc người có thẩm quyền xử phạt, người
có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính có trách nhiệm chứng minh hành
vi vi phạm bằng việc áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ
việc một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ; cá nhân, tổ chức bị xử phạt, cá
nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có quyền tự mình hoặc thông qua người
đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính…..Để phân định mức
phạt tiền giữa cá nhân và tổ chức vi phạm, phù hợp với tính chất vi phạm, một
trong những nguyên tắc mới được quy định tại Luật XLVPHC
là “đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với
tổ chức bằng hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân”.
Việc bổ sung những
nguyên tắc này là rất cần thiết để khắc phục thực trạng cơ quan hành chính ban
hành quyết định xử phạt mang tính đơn phương, áp đặt ý chí chủ quan của người có
thẩm quyền xử phạt.
Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) cũng như Luật XLVPHC đã
quy định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về
các hành vi vi phạm hành chính được thực hiện do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở
lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi hành vi vi phạm hành chính do mình gây
ra. Người chưa đủ 14 tuổi vi phạm hành chính sẽ được nhắc nhở, giáo dục tại gia
đình, có nghĩa là họ không bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính.
Đối với các đối tượng thuộc lực lượng vũ trang, Luật XLVPHC quy định mở rộng
hơn: “Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vi phạm hành
chính thì bị xử lý như đối với công dân khác”.
Luật XLVPHC cũng quy định cụ thể hơn về trường hợp: cá nhân, tổ chức nước ngoài
bị xử phạt vi phạm hành chính khi vi phạm hành chính trong phạm vi vùng tiếp
giáp lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và trên tàu bay mang
quốc tịch Việt Nam, tàu biển mang cờ quốc tịch Việt Nam (trừ trường hợp điều ước
quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định
khác); công dân, tổ chức Việt Nam vi phạm pháp luật hành chính của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể bị xử phạt vi phạm hành
chính theo quy định của Luật.
Bên cạnh đó, Luật XLVPHC vẫn kế thừa quy định của Pháp lệnh XLVPHC về đối tượng
bị xử phạt vi phạm hành chính là tổ chức (điểm b khoản 1 Điều 5).
3.1. Thời hiệu xử lý vi phạm hành
chính
a) Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính
Luật XLVPHC có bổ
sung quan trọng về cách xác định thời
điểm để tính
thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm hành chính đã kết thúc thì
thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm; đối với vi phạm hành
chính đang được thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm phát hiện hành vi
vi phạm.
Trường hợp xử phạt
vi phạm hành chính đối với cá nhân do cơ quan tiến hành tố tụng chuyển đến, Luât
nhấn mạnh thời gian cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý, xem xét được tính vào thời
hiệu xử phạt vi phạm hành chính. Đây là thay đổi cơ bản so với Pháp lệnh XLVPHC.
Luật quy định chỉ tính lại thời hiệu trong trường hợp cá nhân, tổ chức cố tình
trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được
tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.
b) Thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý
hành chính
Về cơ bản, thời
hiệu áp dụng các biện pháp này được giữ nguyên như Pháp lệnh XLVPHC. Điểm mới cơ
bản là thời hiệu áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy được rút ngắn
hơn so với Pháp lệnh XLVPHC, từ 06 tháng xuống 03 tháng .
3.2. Thời hạn được coi là
chưa bị xử lý
hành chính
Luật XLVPHC quy
định thời hạn được coi là chưa bị
xử lý hành chính theo hướng rút
ngắn hơn so với quy định của Pháp lệnh XLVPHC: đối với cá nhân, tổ chức bị xử
phạt vi phạm hành chính, nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong
quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử
phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành
chính; đối với cá nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, nếu trong thời hạn
02 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính
hoặc 01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý
hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý
hành chính.
4. Cách tính thời gian,
thời hạn, thời hiệu trong xử lý vi phạm hành chính
Luật XLVPHC
quy định cách tính thời gian, thời hạn, thời hiệu trong xử lý vi phạm
hành chính được áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp tại một
số điều của Luật quy định là ngày làm việc. Đây là điểm mới so với cách tính
trước đây, thời gian tính theo ngày không được hiểu chung là ngày làm việc,
không bao gồm ngày nghỉ. Chỉ khi Luật quy định “ngày làm việc” thì khoảng thời
gian đó mới được tính là ngày làm việc, không bao gồm ngày nghỉ theo quy định
của Bộ luật Lao động.
5. Tình tiết tăng nặng,
tình tiết giảm nhẹ
Đây là các tình
tiết mà người có thẩm quyền xử phạt cần đánh giá, xem xét để quyết định hình
thức, mức xử phạt cho phù hợp để đảm bảo nguyên tắc công bằng trong xử phạt vi
phạm hành chính, làm căn cứ ban hành quyết định xử phạt phù hợp với nhân thân
người vi phạm, bảo đảm việc xử phạt phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả vi
phạm; đồng thời khuyến khích người vi phạm thành thật khai báo... để được áp
dụng hình thức, mức phạt nhẹ hơn mức phạt thông thường, ngược lại phạt nặng đối
với đối tượng vi phạm nhiều lần, tái phạm, thậm chí vi phạm với quy mô lớn, có
tổ chức, có tính chất côn đồ, vi phạm đối với nhiều người, trẻ em, người già,
người khuyết tật, phụ nữ mang thai hoặc lăng mạ, phỉ báng người thi hành công
vụ, sau khi vi phạm đã cố tình che giấu hành vi vi phạm, gây khó khăn cho cơ
quan, người có thẩm quyền trong việc xác minh vụ việc.
Khác với Pháp lệnh
XLVPHC, Luật XLVPHC đã có bổ sung quan trọng trong việc xác định nguyên tắc áp
dụng các tình tiết tăng nặng để làm cơ sở xem xét xử phạt vi phạm hành chính,
đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực, đó là những tình tiết đã
được quy định là hành vi vi phạm hành chính thì không được coi là tình tiết tăng
nặng để tránh sự lúng túng của người có thẩm quyền trong quá trình áp dụng pháp
luật (khoản 2 Điều 10).
Nhằm bảo đảm áp
dụng thống nhất Luật XLVPHC đã quy định bổ sung một điều về những trường hợp
không xử phạt
vi phạm hành chính
bao gồm các vi
phạm trong tình thế cấp thiết; do phòng vệ chính đáng; do sự kiện bất ngờ; do sự
kiện bất khả kháng hoặc đối tượng thực hiện hành vi vi phạm không có năng lực
trách nhiệm hành chính hay do chưa đủ tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính.
Có thể nói, đây là quy định mới, tiến bộ của Luật XLVPHC mà
Pháp lệnh xử phạt
vi phạm hành chính chưa đề cập tới.
Để hạn chế tối đa việc vi phạm pháp luật, lạm quyền của người có thẩm quyền xử
lý vi phạm hành chính trong khi thi hành công vụ, Luật cũng quy định bổ sung một
điều về các hành vi bị nghiêm cấm trong xử lý vi phạm hành chính bao gồm 12
khoản, trong đó 11 khoản quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với người có
thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính
(Điều 12 Luật XLVPHC).
1. Các hình thức xử phạt và nguyên tắc áp dụng
Hệ thống các hình
thức xử phạt của Luật được thiết kế đa dạng, bao gồm 5 hình thức xử phạt (khoản
1 Điều 21) với nguyên tắc áp dụng linh hoạt (khoản 2 Điều 21). Bên cạnh quy định
hình thức trục xuất, Luật bổ sung hai hình thức là
tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật vi
phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính. Theo quy
định này, Chính phủ có thể lựa chọn nhiều hình thức xử phạt khác nhau làm hình
thức xử phạt chính (có thể tới 5 hình thức) hoặc các hình thức xử phạt bổ sung
(có thể tới 3 hình thức) đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính để quy định tại
Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước.
2. Các biện pháp
khắc phục hậu quả
Luật đã tách
biện pháp buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành
chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép từ Pháp lệnh XLVPHC
thành 2 biện pháp là buộc khôi phục tình trạng ban đầu và buộc tháo dỡ công
trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với
giấy phép. .
Trên cơ sở rà soát các biện pháp khắc phục hậu quả
chưa được
Pháp lệnh XLVPHC quy định,
Luật đã bổ sung
các
biện pháp khắc phục hậu quả mới
sau đây:
- Buộc cải chính
thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn.
- Buộc loại bỏ yếu
tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hóa,
phương tiện kinh doanh, vật phẩm.
- Buộc thu hồi sản
phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng.
- Buộc nộp lại số
lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số
tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu
tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật;
Kế thừa quy định
của Pháp lệnh XLVPHC, Luật
vẫn giao
Chính phủ có thể quy định các biện pháp khắc phục hậu quả khác đối từng hành vi
vi phạm để đáp ứng sự đa dạng của thực tiễn.
3.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện
pháp khắc phục hậu quả
3.1. Sửa đổi, bổ
sung tên các chức danh có thẩm quyền xử phạt VPHC
Luật quy định bổ
sung thêm một số chức danh khác có thẩm quyền xử phạt để đáp ứng yêu cầu quản lý
nhà nước như: Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Cảnh sát giao thông đường bộ,
đường sắt, Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Cảnh sát đường thủy; Trưởng phòng
Công an cấp tỉnh gồm Trưởng phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội,
Trưởng phòng Cảnh sát trật tự, Trưởng phòng Cảnh sát phản ứng nhanh, Trưởng
phòng An ninh chính trị nội bộ, Trưởng phòng An ninh kinh tế, Trưởng phòng An
ninh văn hóa, tư tưởng, Trưởng phòng An ninh thông tin; Trưởng phòng Cảnh sát
phòng cháy, chữa cháy các quận, huyện thuộc Sở Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy,
Cục trưởng Cục An ninh chính trị nội bộ, Cục trưởng Cục An ninh kinh tế, Cục
trưởng Cục An ninh văn hóa, tư tưởng, Cục trưởng Cục An ninh thông tin, Cục
trưởng Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Trưởng phòng
chống buôn lậu, Trưởng phòng chống hàng giả, Trưởng phòng kiểm soát chất lượng
hàng hóa thuộc Cục Quản lý thị trường, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan, Tổng
cục trưởng Tổng cục Thuế, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, Trưởng
đại diện Cảng vụ hàng hải, Trưởng đại diện Cảng vụ hàng không, Trưởng đại diện
Cảng vụ đường thủy nội địa.
Luật cũng sửa đổi
tên gọi của một số chức danh có thẩm quyền xử phạt theo quy định hiện hành của
các văn bản có liên quan như Trưởng cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp
huyện đổi thành Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự, Trưởng phòng Phòng thi hành
án cấp quân khu, Chi Cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự (Luật Thi hành án dân
sự năm 2008); Cục trưởng Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu hộ, cứu nạn,
Cục trưởng Cục theo dõi thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp, Cục trưởng Cục
Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường.
3.2.
Bổ sung thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả
mới
Luật quy định một
số hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả mới so với Pháp lệnh XLVPHC
như đình chỉ hoạt động có thời hạn, buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc
gây nhầm lẫn; buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương
tiện kinh doanh, vật phẩm; buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất
lượng; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm
hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện đã bị tiêu thụ, tẩu
tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật; tương ứng với đó, Luật giao thẩm
quyền áp dụng các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả mới cho các
chức danh trên cơ sở đánh giá sự phù hợp giữa tính chất của các hình thức xử
phạt, biện pháp khắc phục hậu quả mới với nhiệm vụ quản lý nhà nước của chức
danh đó.
Quy định về mức
phạt tiền của các chức danh từ Điều 38 đến Điều 51 của Luật XLVPHC được
điều chỉnh theo hướng tăng cường phân cấp, tăng thẩm quyền xử phạt cho các chức
danh cơ sở - là cấp trực tiếp phát hiện, thụ lý phần lớn các vụ việc vi phạm
hành chính, nhằm nâng cao sự chủ động của các chức danh có thẩm quyền xử phạt ở
cấp cơ sở, giảm tình trạng dồn việc xử phạt lên cấp trên, góp phần nâng cao
tính kịp thời, thiết thực, hiệu quả của việc xử phạt vi phạm hành chính.
3.4. Thay
đổi cách thức quy định về thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt tiền
Để mức phạt tiền của các chức danh có thẩm quyền xử phạt gắn liền với các lĩnh
vực quản lý nhà nước và mức phạt tối đa trong các lĩnh vực quy định tại Điều 24,
Luật thay đổi cách thức quy định về thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt tiền
theo hướng không quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo một mức
phạt tiền cố định đối với tất cả các chức danh như Pháp lệnh XLVPHC mà quy định
theo tỷ lệ phần trăm (%) so với các mức phạt tối đa được quy định tại Điều 24
của Luật, đồng thời có khống chế mức trần đối với một số chức danh có thẩm quyền
chung hoặc xử phạt trong nhiều lĩnh vực.
Việc quy định mức
phạt tiền theo tỷ lệ phần trăm đối với các chức danh cụ thể trong Luật được quy
định theo các tiêu chí, điều kiện sau đây:
- Thẩm quyền xử phạt tiền của từng chức danh trong từng lĩnh vực quản lý nhà
nước cũng được quy định dựa trên chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của các cơ
quan đó. Luật quy định mức phạt tiền của các chức danh có thẩm quyền xử phạt
được xác định theo “các lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật” đối
với các cơ quan có thẩm quyền xử phạt chung (Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp,
công an nhân dân, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, thanh tra) hoặc các cơ quan
thực hiện chức năng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Đối với các cơ quan quản lý
chuyên ngành (thuế, hải quan, kiểm lâm...), mức phạt tiền được quy định cụ thể
là trong lĩnh vực quản lý nhà nước của các cơ quan, chức danh đó quy định tại
Điều 24 của Luật.
- Đối với các chức
danh có thẩm quyền xử phạt cấp cơ sở là chiến sĩ, cảnh sát viên, thanh tra viên,
mức phạt được quy định từ 1% đến 2% mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực tương
ứng quy định tại Điều 24.
- Tùy theo cơ cấu,
tổ chức của từng cơ quan/lực lượng có thẩm quyền xử phạt, mức phạt theo tỷ lệ
phần trăm được chia thành các mức khác nhau từ 3% đến 50% tùy theo cấp quản lý
và số lượng các chức danh có thẩm quyền xử phạt trong cơ quan/lực lượng đó. Các
cơ quan/lực lượng có nhiều chức danh, nhiều cấp có thẩm quyền xử phạt như công
an nhân dân, cảnh sát biển, tỷ lệ phần trăm được chia thành các mức 3%, 5%, 10%,
20%, 30%, 50% và mức tối đa, nhưng cơ quan có thẩm quyền chung có ít cấp xử phạt
như: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, tỷ lệ
phần trăm chỉ được quy định thành ba mức là 10%, 50% và mức tối đa; cơ quan
thanh tra, tỷ lệ phần trăm được quy định thành ba mức là 50%, 70% và mức tối đa.
- Mức phạt của
người có thẩm quyền xử phạt liền kề với người có thẩm quyền phạt đến mức tối đa
trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước về cơ bản được quy định là 50% mức phạt tối
đa của lĩnh vực đó. Ví dụ: Thẩm quyền của Cục trưởng Cục an ninh chính trị nội
bộ là phạt đến mức tối đa đối với lĩnh vực tương ứng thì cấp dưới liền kề của
chức danh này là Giám đốc công an cấp tỉnh là 50% mức phạt tiền tối đa đối với
lĩnh vực tương ứng.
3.5. Xác
định và phân định thẩm quyền, giao quyền xử phạt
Luật bổ sung nguyên
tắc xác định thẩm quyền xử phạt tại Điều 52. Theo đó, thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính của các chức danh là thẩm quyền áp dụng đối với một hành vi vi phạm
hành chính của cá nhân; trong trường hợp phạt tiền, thẩm quyền xử phạt tổ chức
gấp 2 lần thẩm quyền xử phạt cá nhân và được xác định theo tỷ lệ phần trăm quy
định tại Luật XLVPHC đối với chức danh đó. Trường hợp phạt tiền đối với vi phạm
hành chính trong khu vực nội thành, thì các chức danh có thẩm quyền phạt tiền
đối với các hành vi vi phạm hành chính do Chính phủ quy định cũng có thẩm quyền
xử phạt tương ứng với mức tiền phạt cao hơn đối với các hành vi vi phạm hành
chính do Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương quy định áp dụng
trong nội thành.
Bên cạnh đó, Điều
53 Luật XLVPHC quy định trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính quy định tại Luật này có sự thay đổi về tên gọi thì các chức danh đó có
thẩm quyền xử phạt, nhằm bảo đảm tính linh hoạt trong việc áp dụng quy định về
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Về vấn đề giao
quyền xử phạt, đây là quy định kế thừa từ quy định ủy quyền của Pháp lệnh
XLVPHC. Luật thể hiện rõ cơ chế giao quyền theo hướng: người có thẩm quyền xử
phạt có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Cấp phó được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính phải chịu trách nhiệm về
quyết định xử phạt vi phạm hành chính của mình trước cấp trưởng và trước pháp
luật. Người được giao quyền không được giao quyền hoặc ủy quyền cho bất kỳ cá
nhân nào khác. Luật cũng quy định việc giao quyền có thể được thực hiện thường
xuyên hoặc theo vụ việc và phải được thể hiện bằng văn bản, trong đó xác định rõ
phạm vi, nội dung, thời hạn giao quyền.
4.1. Xử phạt vi phạm hành chính
không lập biên bản và có lập biên bản
Thủ tục xử phạt vi
phạm hành chính không lập biên bản được áp dụng trong trường hợp xử phạt cảnh
cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ
chức và người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính tại chỗ.
Thủ tục xử phạt có
lập biên bản được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật quy
định có thể áp dụng mức phạt tiền đối với cá nhân từ 250.000 đồng trở lên và áp
dụng mức phạt tiền đối với tổ chức từ 500.000 đồng trở lên, áp dụng hình thức xử
phạt đình chỉ hoạt động, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc,
tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính….
4.2. Lập biên bản vi phạm hành
chính
Các quy định về thẩm quyền, trình tự thủ tục lập biên bản, biên bản vi phạm hành
chính tại Điều 58
cơ bản kế thừa quy định của Điều 55 Pháp lệnh đồng thời
sửa đổi, bổ sung quy định về nội dung của biên bản xử phạt vi phạm hành chính và
bổ sung quy định trường hợp người chưa thành niên vi phạm hành chính thì biên
bản còn được gửi cho cha mẹ hoặc người giám hộ của người đó.
4.3. Xác minh tình tiết của vụ
việc vi phạm hành chính
Đây là quy định mới so với Pháp lệnh,
theo đó, Điều 59 Luật XLVPHC quy
định khi xem xét ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong trường hợp cần
thiết người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm xác minh có hay không có vi
phạm hành chính xảy ra trên thực tế; chủ thể thực hiện hành vi vi phạm, lỗi,
nhân thân của cá nhân vi phạm; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; tính chất, mức
độ thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra và các tình tiết khác có ý nghĩa đối
với việc xem xét, quyết định xử phạt. Người có thẩm quyền xử phạt cũng có thể
trưng cầu giám định và việc giám định phải được thực hiện theo quy định của pháp
luật về giám định. Quá trình xác minh phải được thể hiện bằng văn bản để bảo đảm
tính khách quan, tính chính xác của các tình tiết của vụ việc vi phạm (khoản 2
Điều 59 ).
4.4. Xác định giá trị tang
vật vi phạm hành chính để làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử
phạt
Theo Điều 60 của Luật XLVPHC trình tự, thủ tục định giá được quy định theo hướng
minh bạch, chặt chẽ hơn nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản của cá
nhân, tổ chức vi phạm, đồng thời đề cao trách nhiệm của người có thẩm quyền xử
phạt trong quá trình giải quyết vụ việc.
Về thẩm quyền định giá, Luật quy định người có thẩm quyền tổ chức định giá là
người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc.
Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 60 Luật XLVPHC bổ sung quy định cơ quan của người có
thẩm quyền ra quyết định tạm giữ có trách nhiệm chi trả mọi chi phí liên quan
đến việc tạm giữ, định giá và thiệt hại do việc tạm giữ gây ra.
4.5. Giải trình
Điều 61 của
Luật XLVPHC bổ sung quy định mới về
quyền giải
trình của cá nhân, tổ chức vi phạm
và trách
nhiệm của cơ quan tiến hành xử phạt phải xem xét ý kiến giải trình của người vi
phạm, phải tiến hành xác minh hành vi đối tượng vi phạm trước khi ra quyết định
xử phạt.
Luật XLVPHC chỉ quy định áp dụng thủ tục giải trình đối với những vi phạm có
tính chất nghiêm trọng theo quy định bị áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời
hạn hoặc vi phạm hành chính quy định áp dụng mức phạt tiền tối đa của khung phạt
tiền đối với hành vi vi phạm lớn, từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ
30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức.
4.6. Chuyển hồ sơ vụ vi phạm có
dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự và chuyển hồ sơ vụ vi phạm để
xử phạt hành chính
Luật XLVPHC trên cơ
sở kế thừa Pháp lệnh XLVPHC đã quy định cụ thể hai trường hợp thường xảy ra
trong thực tiễn: trường hợp thứ nhất là cơ quan có thẩm quyền xử phạt chuyển hồ
sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 62) và
trường hợp thứ hai là trường hợp cá nhân bị khởi tố, truy tố, hoặc có quyết định
đưa ra xét xử nhưng sau đó lại có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án,
nếu vụ vi phạm có dấu hiệu vi phạm hành chính thì cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự phải chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc cùng tang vật, phương tiện của vụ vi phạm
để cơ quan có thẩm quyền xử phạt nghiên cứu, ban hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính (Điều 63). So với quy định của Pháp lệnh, Luật XLVPHC có sửa đổi, bổ
sung một số quy định về trình tự thủ tục chuyển hồ sơ theo hướng minh bạch, cụ
thể, chặt chẽ.
4.7. Những trường hợp không
ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Luật bổ sung một
điều (Điều 65) quy định các trường hợp không ra quyết định xử phạt, bao gồm: các
trường hợp không xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 11 của Luật; không
xác định được đối tượng vi phạm hành chính; hết thời hiệu xử phạt, hết thời hạn
ra quyết định xử phạt; cá nhân vi phạm hành chính chết, mất tích, tổ chức vi
phạm hành chính đã giải thể, phá sản trong thời gian xem xét ra quyết định xử
phạt và trường hợp chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm.
4.8 Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính
a) Về thời hạn ra
quyết định xử phạt
Điều 66 Luật XLVPHC
quy định về thời hạn ra quyết định xử phạt trong các trường hợp thông thường,
thời hạn này được rút ngắn hơn so với quy định của Pháp lệnh. Mặt khác, Luật
cũng quy định cụ thể, chặt chẽ hơn về các trường hợp áp dụng thời hạn xem xét ra
quyết định xử phạt 30 ngày, 60 ngày để bảo đảm áp dụng thống nhất. Theo đó, thời
hạn chung đối với tất cả các trường hợp ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
là 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính; thời hạn ra quyết định
xử phạt là 30 ngày được áp dụng đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà
không thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải
trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61; thời hạn tối đa 60 ngày chỉ
được áp dụng đối với những vụ việc vi phạm có tính chất đặc biệt nghiêm trọng,
có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại
đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật XLVPHC mà cần có thêm thời gian để
xác minh, thu thập chứng cứ.
b) Ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính và nội dung quyết định xử phạt
Điều 67 của Luật bổ
sung trường hợp ban hành 01 hoặc nhiều quyết định xử phạt trong vụ việc có nhiều
cá nhân, tổ chức cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính và trường hợp
nhiều cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính khác nhau
trong cùng một vụ vi phạm để quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành
vi vi phạm của từng cá nhân, tổ chức.
Nội dung quyết định
xử phạt quy định tại khoản 1 Điều 68 của Luật cơ bản giống Pháp lệnh, tuy nhiên
Luật XLVPHC bổ sung thêm quy định về thời hạn thi hành quyết định. Thời hạn thi
hành quyết định được ghi trong quyết định xử phạt là 10 ngày, kể từ ngày nhận
quyết định xử phạt, hoặc có thể nhiều hơn nhưng phải được ghi rõ trong quyết
định để thi hành.
5. Thi hành quyết định xử
phạt
5.1.
Thi hành quyết định xử phạt không lập biên bản
Luật quy định thủ
tục thi hành quyết định xử phạt đơn giản,
cá nhân, tổ chức vi phạm nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt
và được nhận chứng từ thu tiền phạt.
Mặt khác, Luật bổ sung quy định người vi phạm có thể nộp tiền phạt tại Kho bạc
Nhà nước hoặc nộp vào tài khoản của Kho bạc Nhà nước ghi trong quyết định xử
phạt trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định xử phạt. Người có
thẩm quyền xử phạt có thể tạm giữ giấy phép lái xe hoặc giấy phép lưu hành
phương tiện hoặc các giấy tờ cần thiết khác cho đến khi cá nhân, tổ chức thi
hành xong quyết định xử phạt theo quy định tại khoản 6 Điều 125 Luật XLVPHC .
5.2. Thi hành quyết định xử phạt có lập
biên bản
a) Gửi quyết định
xử phạt để thi hành
Điều 70 của Luật quy định người có thẩm quyền đã ra quyết định xử phạt có trách
nhiệm gửi quyết định xử phạt cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt, cơ quan thu tiền
phạt và cơ quan liên quan khác để thi hành trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể
từ ngày ra quyết định xử phạt. Mặt khác, Luật quy định cụ thể các hình thức gửi
quyết định xử phạt. Quyết định có thể được giao trực tiếp hoặc gửi qua bưu điện
bằng hình thức bảo đảm và thông báo cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt biết.
b) Công bố công
khai trên các phương tiện thông tin đại chúng việc xử phạt đối với cá nhân, tổ
chức vi phạm hành chính
Đây là quy định mới so với Pháp lệnh XLVPHC trên cơ sở luật hóa một số nghị định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo vệ môi trường, thuế....
Điều 72 Luật XLVPHC bổ sung một điều quy định về thủ tục công bố công khai trên
các phương tiện thông tin đại chúng về quyết định xử phạt vi phạm hành chính. .
c) Thủ tục thi hành
các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả
* Thủ tục
thi hành quyết định phạt tiền
Thủ tục thi hành
quyết định phạt tiền từ Điều 76 đến Điều 79
gồm các
quy định về hoãn thi hành quyết định phạt tiền; giảm, miễn tiền phạt; thủ tục
nộp tiền phạt và nộp tiền phạt nhiều lần. Các quy định về hoãn thi hành quyết
định phạt tiền, giảm miễn tiền phạt (Điều 76, Điều 77) là những quy định mới so
với Pháp lệnh, Luật quy định quyết định phạt tiền có thể được hoãn thi hành đối
với cá nhân bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng trở lên và có xác nhận của Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó học tập,
làm việc. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định trường hợp những người này sau khi đã
được xem xét, miễn thi hành quyết định phạt tiền mà vẫn không có khả năng thi
hành thì có thể được xem xét giảm, miễn phần còn lại tiền phạt ghi trong quyết
định xử phạt (khoản 1 Điều 77). Việc hoãn thi hành quyết định xử phạt do người
đã ra quyết định xử phạt xem xét quyết định, nhưng việc giảm, miễn tiền phạt
phải do cấp trên trực tiếp của những người này xem xét, quyết định để tránh tiêu
cực, tùy tiện trong quá trình thi hành.
* Thủ tục nộp tiền
phạt
Điều 78 Luật
đã quy định về việc tính thêm 0,05% trên tổng số tiền phạt
chưa nộp
cho mỗi ngày chậm
nộp
phạt trước
khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Luật cũng bổ sung quy định về nơi nộp tiền
phạt, theo đó, người vi phạm có thể nộp tiền phạt vào Kho bạc Nhà nước hoặc tài
khoản của Kho bạc Nhà nước được ghi trong quyết định xử phạt để tạo điều kiện
thuận lợi cho cá nhân, tổ chức thi hành quyết định.
* Nộp tiền phạt
nhiều lần
Điều 79 của Luật
quy định về điều kiện và thủ tục nộp tiền phạt nhiều lần, theo đó, điều kiện áp
dụng quy định này đối với cá nhân là mức phạt tiền phải trên 20.000.000 đồng và
đối với tổ chức phải trên 200.000.000 đồng
Thời hạn nộp tiền
phạt nhiều lần không quá 06 tháng, kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực số
lần nộp tiền phạt tối đa không quá 03 lần và mức nộp phạt lần thứ nhất tối thiểu
là 40% tổng số tiền phạt.
* Thủ tục tịch thu
tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
Về trình tự, thủ
tục tịch thu (Điều 81),
về cơ bản nội dung của Điều này kế thừa các quy định tại Điều 60 của Pháp lệnh
XLVPHC, đồng thời bổ sung quy định xử lý đối với tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính đang bị tạm giữ. Nếu người có thẩm quyền xử phạt nhận thấy tình trạng
tang vật, phương tiện có thay đổi so với thời điểm ra quyết định tạm giữ thì
phải lập biên bản về những thay đổi này; biên bản phải có chữ ký của người lập
biên bản, người có trách nhiệm tạm giữ và người chứng kiến. Luật giao Chính phủ
quy định việc quản lý và bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị
tịch .
Về xử lý tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu (Điều 82),
nội dung của Điều này được bố cục lại trên cơ sở ghép nội dung xử lý tang vật vi
phạm hành chính tại Điều 46 và Điều 61 Pháp lệnh XLVPHC. Khoản 1 Điều 82 quy
định cụ thể việc xử lý đối với từng loại tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính bị tịch thu. Tang vật vi phạm hành chính là tiền Việt Nam, ngoại tệ, chứng
chỉ có giá, vàng, bạc, đá quý, kim loại quý thì phải nộp vào ngân sách nhà nước;
giấy tờ, tài liệu, chứng từ liên quan tới tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính thì chuyển cho cơ quan được giao quản lý, sử dụng tài sản....
Về thẩm quyền và
trình tự, thủ tục tổ chức bán đấu giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính:
Luật quy định cơ quan của của người ra quyết định tịch thu tiến hành thuê tổ
chức bán đấu giá chuyên nghiệp, bao gồm trung tâm, Hội đồng bán đấu giá của nhà
nước và doanh nghiệp bán đấu giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương nơi xảy ra hành vi vi phạm để thực hiện việc bán đấu giá; trường hợp không
thuê được tổ chức bán đấu giá thì thành lập Hội đồng để bán đấu giá (điểm đ
khoản 1 Điều 82 Luật XLVPHC )
* Quản lý tiền thu từ xử phạt vi phạm hành chính, chứng từ thu, nộp tiền phạt
Khoản 1 Điều 83 quy định cụ thể các
khoản tiền thu từ xử phạt vi phạm hành chính bao gồm tiền nộp phạt vi phạm hành
chính; tiền nộp do chậm thi hành quyết định xử phạt tiền; tiền bán, thanh lý
tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu và các khoản tiền khác.
Luật cũng bổ sung nguyên tắc, toàn bộ tiền thu từ xử phạt vi phạm hành chính
phải nộp vào ngân sách nhà nước và được quản lý, sử dụng theo đúng quy định của
pháp luật về ngân sách nhà nước.
*Thủ tục thi hành
biện pháp khắc phục hậu quả
Để bảo đảm trật tự,
an toàn xã hội, kịp thời khắc phục các hậu quả do vi phạm hành chính gây ra,
Điều 85 của Luật bổ sung quy định về thủ tục thi hành các biện pháp khắc phục
hậu quả. Về nguyên tắc, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính có trách nhiệm thực
hiện biện pháp khắc phục hậu quả được ghi trong quyết định theo quy định của
pháp luật và phải chịu mọi chi phí cho việc thực hiện biện pháp khắc phục hậu
quả đó. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt như không xác định được đối
tượng vi phạm hành chính; cá nhân chết, mất tích hoặc tổ chức bị giải thể, phá
sản mà không có tổ chức nào tiếp nhận chuyển giao quyền và nghĩa vụ thì cơ quan
nơi người có thẩm quyền xử phạt đang thụ lý hồ sơ vụ vi phạm hành chính phải tổ
chức thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả. Chi phí thực hiện được lấy từ
nguồn ngân sách dự phòng cấp cho cơ quan đó.
5.3. Cưỡng chế thi
hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Theo quy định của
Luật XLVPHC thì cá nhân, tổ chức phải chấp hành quyết định xử phạt trong thời
hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận quyết định xử phạt vi phạm; trường hợp quyết định
xử phạt vi phạm hành chính có ghi thời hạn thi hành nhiều hơn 10 ngày thì thực
hiện theo thời hạn đó. Quá thời hạn đã được quy định cá nhân, tổ chức bị xử phạt
không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt thì phải bị cưỡng chế thi hành. Các
biện pháp cưỡng chế bao gồm: khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập,
khấu trừ tiền từ tài khoản của cá nhân, tổ chức vi phạm; kê biên tài sản có giá
trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá; thu tiền, tài sản khác của đối
tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính do cá nhân, tổ
chức khác đang giữ trong trường hợp cá nhân, tổ chức sau khi vi phạm cố tình tẩu
tán tài sản và các biện pháp cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu
quả.
Đồng thời, Luật bổ sung thêm một số chức
danh có thẩm quyền quyết định cưỡng chế như Thủ trưởng cơ quan được giao thực
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành; Cục trưởng Cục cảnh sát phòng, chống tội
phạm sử dụng công nghệ cao; Chỉ huy trưởng Vùng cảnh sát biển; Cục trưởng cục
thuế; Tổng cục trưởng Tổng cục thuế; Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan…
Khoản 3 Điều 88 của Luật đã quy định cụ
thể trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc phối hợp thi hành quyết định
cưỡng chế, theo đó, cá nhân, tổ chức liên quan có nghĩa vụ phối hợp với người có
thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế triển khai các biện pháp nhằm thực hiện các
quyết định cưỡng chế; lực lượng Cảnh sát nhân dân có trách nhiệm bảo đảm trật
tự, an toàn trong quá trình thi hành quyết định cưỡng chế của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cùng cấp hoặc quyết định cưỡng chế của các cơ quan nhà nước khác khi
được yêu cầu; Tổ chức tín dụng nơi cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế thi hành mở tài
khoản phải giữ lại trong tài khoản của cá nhân, tổ chức đó số tiền tương đương
với số tiền mà cá nhân, tổ chức phải nộp theo yêu cầu của người có thẩm quyền ra
quyết định cưỡng chế. Trường hợp số dư trong tài khoản tiền gửi ít hơn số tiền
mà cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế phải nộp thì tổ chức tín dụng vẫn phải giữ lại
và trích chuyển số tiền đó. Trong thời hạn 05 ngày làm việc trước khi trích
chuyển, tổ chức tín dụng có trách nhiệm thông báo cho cá nhân, tổ chức bị cưỡng
chế biết việc trích chuyển; việc trích chuyển không cần sự đồng ý của họ.
C.
ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ
HÀNH CHÍNH
1.1. Đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn
Điều 90 của Luật
quy định về đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, trong
đó, mức độ vi phạm “nhiều lần” tại Pháp lệnh XLVPHC đã được quy định cụ thể tại
Luật là “02 lần trở lên trong 06 tháng”.
Đối với người chưa
thành niên, biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn chỉ áp dụng đối với các
hành vi vi phạm do cố ý. Luật quy định của áp dụng biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng đối với người từ đủ 12 tuổi
đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng
do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự
(khoản 1 Điều 90), Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
thực hiện hành vi có dấu hiệu của
một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật Hình sự (khoản 2 Điều
90), Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi 02 lần trở lên
có
hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự (khoản 3 Điều 90)
Theo Luật XLVPHC,
đối tượng người chưa thành niên không có nơi cư trú ổn định sẽ được giao cho cơ
sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em để quản lý, giáo dục trong thời
gian chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn (khoản 6 Điều 90)
thay vì đưa vào trường giáo dưỡng.
1.2. Đối tượng áp dụng biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng
Điều 92 của Luật hạn chế tối đa việc áp dụng biện pháp này. Đối với người từ đủ
12 đến dưới 14 tuổi, Luật không áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với người
từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng quy định tại Bộ luật Hình sự
do vô ý như Pháp lệnh XLVPHC,
chỉ áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người
thực hiện hành vi
có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật
hình sự.
Luật XLVPHC cũng đã quy định cụ thể mức độ vi phạm “nhiều lần” là “02 lần trở
lên trong 06 tháng”. Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
không bao gồm người chưa thành niên chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định.
Cũng trên tinh thần nhân đạo, ngoài quy định không áp dụng biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng đối với
người
không có năng lực trách nhiệm hành chính,
Luật quy định không áp dụng biện pháp này đối với
người
đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện,
phụ
nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.
1.3. Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc
(Điều 94)
Quy định về đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục về cơ bản được
giữ nguyên như Pháp lênh XLVPHC. Cũng tương tự như các biện pháp trên, mức độ
“vi phạm nhiều lần” được lượng hóa là 02 lần trở lên trong 6 tháng.
1.4. Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc
Điều 96 Luật quy
định đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là
người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi
trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi
cư trú ổn định. .
Luật quy định thẩm
quyền xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính các biện pháp xử lý
hành chính hạn chế trực tiếp quyền tự do của công dân (biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc) là Tòa án nhân dân. Đây là nội dung thay đổi rất lớn so với Pháp lệnh
XLVPHC. Hơn nữa, việc giao Toà án quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính nêu trên sẽ tạo điều kiện cho đương sự, luật sư, người bào chữa được tham
dự để bảo vệ quyền lợi của đương sự, bảo đảm dân chủ, khách quan; phù hợp với
quá trình hội nhập quốc tế. Riêng thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn vẫn được giao cho Chủ tịch UBND cấp xã.
3.1. Bảo đảm
sự tham gia của người bị đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
Một nội dung quan
trọng mang tính cải cách lớn của Luật là cơ quan lập hồ sơ phải thông báo cho
người bị áp dụng, cha mẹ hoặc người đại diện của họ về việc lập hồ sơ để những
người này đọc hồ sơ và ghi chép các nội dung cần thiết (khoản 4 Điều 97, khoản 3
Điều 99, khoản 3 Điều 101 và khoản 3 Điều 103). Trên cơ sở xem xét các tài liệu
trong hồ sơ, người bị đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính có thể
chuẩn bị ý kiến để tự bảo vệ quyền, lợi ích của mình trong cuộc họp tư vấn trong
trường hợp bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và trước Tòa
án trong trường hợp bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ
sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Đối với người bị đề
nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, Luật quy định người bị
đề nghị áp dụng, cha mẹ hoặc người giám hộ (trong trường hợp đối tượng là người
chưa thành niên), người đại diện hợp pháp của họ phải được mời tham gia
cuộc họp tư vấn và phát biểu ý kiến của mình về việc áp dụng biện pháp.
3.2. Quy định cụ thể về
trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị và thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện
pháp xử lý hành chính
Đối với biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn, Luật quy định rõ về việc lập hồ sơ; bổ sung
trách nhiệm của công chức tư pháp - hộ tịch trong việc kiểm tra hồ sơ và tổ chức
cuộc họp tư vấn; quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, người được
phân công giúp đỡ đối tượng; quy định về khoản kinh phí hỗ trợ cho việc quản lý,
giúp đỡ, giáo dục đối tượng...
Về thủ tục lập hồ
sơ đề nghị xem xét quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, do các biện
pháp này sẽ được Tòa án xem xét, quyết định theo trình tự, thủ tục tư pháp, Luật
quy định hồ sơ sau khi được lập sẽ được gửi đến Trưởng phòng tư pháp cấp huyện
để kiểm tra tính pháp lý trước khi Trưởng công an cấp huyện hoặc Trưởng phòng
Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện chuyển đến Tòa án nhân dân.
Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc áp dụng các biện
pháp này tại Tòa án nhân dân được giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định.
Thẩm quyền quyết định hoãn, miễn chấp hành, tạm đình chỉ và miễn chấp hành phần
còn lại của quyết định được giao cho Tòa án nhân dân. Luật quy định đối tượng ốm
nặng, mắc bệnh hiểm nghèo mà không xác định được nơi cư trú thuộc trường hợp
được tạm đình chỉ chấp hành quyết định hoặc được miễn chấp hành phần
thời gian còn lại quy định tại khoản 2 Điều 112 thì được đưa về cơ sở y
tế tại địa phương nơi trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc đóng trụ sở để điều trị (khoản 4 Điều 112); quy định về quản lý
người được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành quyết định đưa vào trường giáo
dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc nhằm giải quyết vướng
mắc trong thực tiễn là không có cơ quan, tổ chức nào quản lý người được hoãn,
miễn chấp hành những quyết định này (Điều 113); quy định đối tượng không xác
định được nơi cư trú là người chưa thành niên hoặc người ốm yếu không
còn khả năng lao động thì sau khi hết hạn chấp hành biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được đưa về cơ
sở bảo trợ xã hội tại địa phương nơi trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc,
cơ sở cai nghiện bắt buộc đóng trụ sở (khoản 3 Điều 114).
5. Các quy định khác
liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
Các quy định khác liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính về
cơ bản được kế thừa từ Pháp lệnh XLVPHC, trừ quy định về tính thời hạn đã chấp
hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong trường hợp đối tượng bị Toà án xử phạt tù.
Luật quy định theo hướng có lợi hơn, cụ thể là 1,5 ngày chấp hành biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc được tính bằng 01 ngày chấp hành hình phạt tù, trong khi Pháp lệnh
XLVPHC quy định là 02 ngày.
D. CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN VÀ BẢO ĐẢM XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH
CHÍNH
1.
Quy định chung về các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính
Điều 119 quy định các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính
gồm có 9 biện pháp: tạm giữ người; áp giải người vi phạm; tạm giữ tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề; khám người; khám
phương tiện vận tải, đồ vật; khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính; quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong khoảng
thời gian làm thủ tục trục xuất; giao cho gia đình, tổ chức quản lý người đang
được làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính; và truy tìm đối tượng phải
chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong trường hợp bỏ trốn.
Điều 120 quy định nguyên tắc áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi
phạm hành chính nhấn mạnh việc áp dụng phải tuân thủ nghiêm ngặt về trình tự,
thủ tục và chỉ được áp dụng trong những trường hợp thật cần thiết; việc sử dụng
vũ khí, công cụ hỗ trợ trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý
vi phạm hành chính phải được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, người có thẩm quyền quyết
định áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính phải hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần thiết hoặc thay thế bằng một biện
pháp ngăn chặn khác.
2. Các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính
2.1. Biện pháp tạm giữ người
và thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính
Điều 122 của Luật quy định rất chặt chẽ về điều kiện áp dụng biện pháp tạm giữ
người theo thủ tục hành chính. Biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính
chỉ được áp dụng trong trường hợp cần ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây
rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác. Điều 122 quy định
trường hợp người bị tạm giữ trên tàu bay, tàu biển thì phải chuyển ngay
cho cơ quan có thẩm quyền khi tàu bay đến sân bay, tàu biển cập cảng. Bên cạnh
đó, Điều 122 của Luật cũng quy định nơi tạm giữ người theo thủ tục hành chính là
nhà tạm giữ hành chính hoặc buồng tạm giữ hành chính phải được bố trí tại trụ sở
cơ quan, đơn vị nơi làm việc của người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ người
vi phạm hành chính. Trường hợp không có nhà tạm giữ hành chính hoặc buồng tạm
giữ hành chính thì tạm giữ tại phòng trực ban hoặc phòng khác tại nơi làm việc,
nhưng phải bảo đảm các quy định chung.
Về thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính quy định tại Điều 123 Luật
XLVPHC có quy định một số chức danh cho phù hợp với thực tiễn như Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã,
Trưởng phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp, Trưởng phòng Cảnh
sát phòng, chống tội phạm về môi trường, Chỉ huy trưởng Vùng Cảnh sát biển, Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa, Trưởng tàu khi tàu hỏa đã rời nhà ga để bảo đảm tính
linh hoạt và khả thi khi áp dụng trên thực tế.
2.2. Biện pháp áp giải người vi phạm
Đây là biện pháp
mới được bổ sung trong Luật (Điều 124) nhằm mục đích cưỡng chế người vi phạm
trong trường hợp bị tạm giữ người theo thủ tục hành chính hoặc đưa đối tượng bỏ
trốn trở lại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt
buộc do họ không tự nguyện chấp hành yêu cầu của người có thẩm quyền.
2.3. Biện pháp tạm giữ và xử lý tang
vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính
* Về tạm giữ tang
vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo thủ tục hành chính:
Điều 125 Luật XLVPHC đã quy định việc
tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề chỉ được áp
dụng trong trường hợp thật cần thiết để xác minh tình tiết mà nếu không tạm giữ
thì không có căn cứ ra quyết định xử phạt; để ngăn chặn ngay hành vi vi phạm
hành chính mà nếu không tạm giữ thì sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội hoặc
để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt trong trường hợp chỉ áp dụng hình thức xử
phạt tiền. Việc tạm giữ tang vật, phương tiện quy định tại khoản 1 Điều 125 Luật
XLVPHC phải được chấm dứt ngay sau
khi xác minh được tình tiết làm căn cứ quyết định xử phạt, hành vi vi phạm không
còn gây nguy hiểm cho xã hội hoặc quyết định xử phạt được thi hành. Trường hợp
được nộp tiền phạt nhiều lần theo quy định tại Điều 79 của Luật, sau khi nộp
tiền phạt lần đầu thì người vi phạm được nhận lại tang vật, phương tiện bị tạm
giữ.
Thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo
thủ tục hành chính cũng là một trong những nội dung quan trọng được sửa đổi, bổ
sung. Cụ thể: người có thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính có thẩm quyền tạm giữ tang vật vi phạm hành
chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
Khoản 5 Điều 125 nhấn mạnh trách nhiệm bảo quản tang vật, phương tiện của người
ra quyết định tạm giữ. Trong trường hợp tang vật, phương tiện bị mất, bán, đánh
tráo hoặc hư hỏng, mất linh kiện, thay thế thì người ra quyết định tạm giữ tang
vật, phương tiện phải chịu trách nhiệm bồi thường và bị xử lý theo quy định của
pháp luật. Đây là quy định mới nhằm bảo đảm tính khách quan, góp phần
giảm thiểu việc khiếu nại trong quá trình xử phạt vi phạm hành chính.
Việc giữ phương tiện, giấy tờ để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt cũng được
quy định chặt chẽ hơn. Khoản 6 Điều 125 quy định người có thẩm quyền phải tạm
giữ giấy tờ, nếu không có giấy tờ thì mới tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính. Việc tạm giữ giấy tờ cũng phải theo thứ tự: giấy phép lái xe hoặc
giấy phép lưu hành phương tiện hoặc giấy tờ cần thiết khác có liên quan đến tang
vật, phương tiện. Trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính thuộc trường
hợp bị áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề thì có thể bị tạm giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề để bảo đảm thi hành
quyết định xử phạt. Khoản 7 Điều 125 khẳng định việc tạm giữ giấy phép, chứng
chỉ hành nghề trong thời gian chờ ra quyết định không làm ảnh hưởng quyền sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề của cá nhân, tổ chức đó, thời gian bị tạm
giữ không bị coi là đang bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
Về thời hạn tạm giữ, Luật hạn chế tối đa thời gian tạm giữ tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề là 07 ngày, kể từ ngày tạm
giữ. Thời hạn tạm giữ có thể được kéo dài đối với những vụ việc có nhiều tình
tiết phức tạp, cần tiến hành xác minh nhưng tối đa không quá 30 ngày, kể từ ngày
tạm giữ tang vật, giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
Một nội dung quan trọng được bổ sung tại khoản 10 Điều 125, đó là quy định đối
với phương tiện giao thông thuộc trường hợp bị tạm giữ để bảo đảm thi hành quyết
định xử phạt, nếu cá nhân, tổ chức vi phạm có địa chỉ rõ ràng, có nơi lưu giữ,
bảo quản phương tiện hoặc có khả năng về tài chính để đặt tiền bảo lãnh thì cơ
quan có thẩm quyền có thể giao cho họ giữ, bảo quản phương tiện trong thời gian
bảo đảm thi hành quyết định xử phạt.
* Về xử lý tang
vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ theo thủ tục hành
chính
Quy định về xử lý
tang vật, phương tiện bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi phạm hành chính tại
Điều 126 được chuyển từ quy định tại Điều 17 Pháp lệnh XLVPHC. Luật quy định đối
với tang vật, phương tiện đang bị tạm giữ do bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép để
vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tịch thu thì trả lại cho chủ sở hữu,
người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp. Luật quy định trong trường hợp này,
cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang vật,
phương tiện vi phạm vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, Luật cũng nhấn mạnh, nếu
chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp có lỗi cố ý trong việc để
người vi phạm sử dụng tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thì tang vật,
phương tiện đó bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước mà không buộc cá nhân, tổ
chức vi phạm phải nộp khoản tiền tương đương
Luật cũng quy định
cụ thể những trường hợp phải thu phí và không thu phí lưu kho, phí bến bãi, phí
bảo quản
để bảo đảm tính thống nhất, công khai, minh bạch. Theo đó, người có tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ chỉ phải trả chi phí lưu kho, phí
bến bãi, phí bảo quản tang vật, phương tiện và các khoản chi phí khác trong thời
gian tang vật, phương tiện bị tạm giữ theo quy định tại khoản 8 Điều 125 Luật
XLVPHC (thời hạn tạm giữ là 07 ngày và tối đa không quá 30 ngày, kể từ ngày tạm
giữ). Không thu phí lưu kho, phí bến bãi và phí bảo quản trong thời gian tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ nếu chủ tang vật, phương tiện
không có lỗi trong việc vi phạm hành chính hoặc áp dụng biện pháp tịch thu đối
với tang vật, phương tiện.
2.4. Biện pháp khám phương tiện vận tải, đồ vật, khám nơi cất
giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
Điều 128 của Luật quy định hạn chế thẩm quyền khám, chỉ những người có thẩm
quyền tạm giữ người quy định tại khoản 1 Điều 123 Luật XLVPHC
mới có quyền khám phương tiện vận tải, đồ vật theo thủ tục hành chính.
Trong trường hợp có căn cứ để cho rằng nếu không tiến hành khám ngay thì tang
vật vi phạm hành chính sẽ bị tẩu tán, tiêu hủy, thì chiến sĩ cảnh sát nhân dân,
cảnh sát viên cảnh sát biển, chiến sĩ bộ đội biên phòng, kiểm lâm viên, công
chức thuế, công chức hải quan, kiểm soát viên thị trường, thanh tra viên đang
thi hành công vụ được khám nhưng phải báo cáo ngay cho thủ trưởng trực tiếp của
mình và phải chịu trách nhiệm về việc khám. Bên cạnh đó, Luật quy định việc khám
phương tiện vận tải, đồ vật phải có quyết định bằng văn bản, trừ trường hợp khám
ngay, mọi trường hợp khám đều phải lập biên bản và phải giao cho chủ phương tiện
vận tải, đồ vật hoặc người điều khiển phương tiện vận tải 01 bản.
Quy định về biện pháp khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
được giữ nguyên như quy định tại Điều 49 Pháp lệnh XLVPHC.
2.5. Biện pháp quản lý đối với người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong
khoảng thời gian làm thủ tục trục xuất
Điều 130 Luật XLVPHC quy định biện pháp này chỉ được áp dụng khi có căn cứ cho
rằng nếu không áp dụng thì người đó sẽ trốn tránh hoặc cản trở việc thi hành
quyết định xử phạt trục xuất hoặc để ngăn chặn người đó tiếp tục thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật. Thủ trưởng Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh hoặc Giám đốc
Công an cấp tỉnh nơi lập hồ sơ đề nghị trục xuất ra quyết định quản lý đối với
người nước ngoài vi phạm pháp luật trong thời gian làm thủ tục trục xuất bằng
các biện pháp như: Hạn chế việc đi lại của người bị quản lý, chỉ định chỗ ở của
người bị quản lý, tạm giữ hộ chiếu hoặc giấy tờ tuỳ thân khác thay hộ chiếu.
2.6. Biện pháp giao cho gia
đình, tổ chức quản lý người đang được làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành
chính
Biện pháp này được quy định áp dụng đối với người bị đề nghị áp dụng biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc trong thời gian người có thẩm quyền làm thủ tục xem xét, quyết
định việc áp dụng các biện pháp này. Đối với đối tượng vi phạm có nơi cư trú ổn
định thì giao cho gia đình quản lý; trường hợp không có nơi cư trú ổn định thì
giao cho tổ chức xã hội quản lý.
Điều 131 của Luật quy định rõ hơn về thời hạn quản lý, nội dung quyết định giao
cho gia định hoặc tổ chức xã hội quản lý, trách nhiệm của gia đình, tổ chức xã
hội, trách nhiệm của người được quản lý và trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã. Trên cơ sở các quy định này của Luật, Chính phủ sẽ quy định chi tiết
việc áp dụng biện pháp này.
2.7.
Quy định về truy tìm đối tượng đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong trường hợp
bỏ trốn
Bên cạnh các quy
định mới đã đề cập ở trên, về cơ bản quy định tại Điều 132 giữ nguyên trên cơ sở
Pháp lệnh XLVPHC. Tuy nhiên, đối với người có quyết định đưa vào trường giáo
dưỡng hoặc đang chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng, nếu khi truy tìm
được mà người đó đã đủ 18 tuổi thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng sẽ đề nghị Tòa
án nhân dân cấp huyện nơi có trường giáo dưỡng xem xét, quyết định áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc nếu có đủ điều kiện thuộc đối tượng đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc. Luật cũng quy định thời gian bỏ trốn không được tính
vào thời hạn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng,
đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Điều 134 Luật XLVPHC đưa ra các nguyên tắc xử lý mới, đặc thù để áp dụng đối với
vi phạm hành chính do NCTN, cụ thể là:
- Nguyên tắc việc xử lý chỉ được thực hiện trong trường hợp cần thiết nhằm giáo
dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có
ích cho xã hội.
- Nguyên tắc bảo đảm lợi ích tốt nhất cho NCTN được áp dụng trong quá trình xử
lý NCTN.
- Nguyên tắc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng chỉ được thực hiện khi
xét thấy không có biện pháp xử lý khác phù hợp hơn.
- Việc áp
dụng hình thức,
quyết định
mức xử phạt
vi phạm hành chính
đối với người chưa thành niên
phải
nhẹ hơn so với người thành niên có cùng hành vi vi phạm
hành chính.
- Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ bí mật riêng tư của NCTN.
- Việc áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính không được coi là đã
bị xử lý vi phạm hành chính.
2.1. Áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với NCTN ít hơn người
thành niên
Trên cơ sở các nguyên tắc về xử lý vi phạm hành chính áp dụng đối với NCTN,
khoản 1 Điều 135 Luật XLVPHC quy định 3 hình thức xử phạt vi phạm hành chính áp
dụng đối với NCTN là cảnh cáo; phạt tiền; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính trong 5 hình thức xử phạt quy định chung áp dụng đối với mọi hành vi
vi phạm do cá nhân, tổ chức thực hiện quy định tại Điều 21 của Luật XLVPHC .
Theo đó:
-
Hình thức xử phạt
cảnh cáo:
Luật quy định áp dụng
đối với
mọi hành vi
vi phạm hành chính do
NCTN
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện
(Điều 22 Luật XLVPHC ).
- Hình thức xử phạt tiền:
Luật quy định
hình thức
xử phạt này không được áp dụng
đối với
NCTN
vi phạm
hành chính
ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Đối với NCTN từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì có thể áp dụng hình thức xử phạt
này. Tuy nhiên, mức tiền phạt áp dụng đối với từng hành vi vi phạm trong từng
lĩnh vực quản lý nhà nước do NCTN thực hiện không được áp dụng theo nguyên tắc
chung như đối với người thành niên mà phải thực hiện theo nguyên tắc: “NCTN
bị phạt tiền thì mức tiền phạt không quá 1/2 mức tiền phạt áp dụng đối với người
thành niên”.
Trường hợp người chưa thành niên không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc người
giám hộ phải thực hiện thay.
2.2.
Chỉ áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả
phù hợp với năng lực trách nhiệm hành chính của NCTN
Trên cơ sở cân nhắc
về độ tuổi, mức độ trưởng thành và năng lực trách nhiệm hành chính của
NCTN khi
tham gia các quan hệ pháp luật,
khoản 2 Điều 135
Luật đã quy định
chỉ áp dụng
4 trong số 9 biện pháp khắc phục hậu quả đã được quy định tại Điều
28 của Luật.
Bên cạnh đó, để bảo đảm thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả, nâng cao trách
nhiệm của cha mẹ hoặc người giám hộ của NCTN, khoản 3 Điều 134 của Luật quy
định: trường hợp NCTN không có khả năng
thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải
thực hiện thay.
Luật XLVPHC quy
định 2 biện pháp xử lý hành chính áp dụng
đối với NCTN là biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn (áp dụng chung
cho cả NCTN và người thành niên) và biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng (chỉ áp
dụng riêng đối với đối tượng là NCTN vi phạm pháp luật hành chính).
3.1. Áp dụng
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Khoản 1 Điều 136
Luật XLVPHC quy định: biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được áp dụng
đối với NCTN vi phạm pháp luật theo quy định tại Điều 90. Theo quy định này, khi
tiến hành xem xét áp dụng và thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn đối với NCTN, người có thẩm quyền bên cạnh việc phải tuân
theo quy định chung về xem xét áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường thị
trấn còn phải tuân theo các quy định về áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn, cụ thể là tuân thủ các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính;
tuân thủ quy định về trách nhiệm quản lý của cha mẹ hoặc người giám hộ đối với
NCTN có nơi cư trú ổn định, trách nhiệm của cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở trợ
giúp trẻ em đối với NCTN không có nơi cư trú ổn định.
Bên cạnh đó, Luật quy định NCTN được đi học hoặc tham gia các chương
trình học tập hoặc dạy nghề khác, tham gia các chương trình tham vấn, phát triển
kỹ năng sống tại cộng đồng phù hợp với độ tuổi của các em.
3.2. Áp dụng biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng
Đây là biện pháp xử
lý hành chính chỉ áp dụng riêng đối với NCTN. Do vậy, các quy định về biện pháp,
đối tượng, thủ tục lập hồ sơ, chuyển hồ sơ, xem xét quyết định áp dụng biện
pháp, thi hành quyết định áp dụng biện pháp tại khoản 2 Điều 136
được viện dẫn tới quy định tại Phần thứ ba của Luật để tiến hành áp dụng
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Cụ thể, các quy định chung về nguyên tắc xử
lý, đối tượng xử lý, thời hiệu xử lý được áp dụng theo Điều 3, 5 và 6 của Luật;
các quy định về biện pháp và đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng được thực hiện theo Điều 91 và Điều 92 của Luật; các quy định về thủ tục
lập hồ sơ đề nghị xem xét áp dụng biện pháp được thực hiện theo quy định tại
Điều 99, 100 của Luật; các quy định về thẩm quyền, thủ tục xem xét quyết định áp
dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng được thực hiện theo quy định tại khoản
2 Điều 105 và Điều 106 của Luật; các quy định về thi hành quyết định áp dụng
biện pháp được thực hiện theo Điều 107, 108, 110, 111, 112, 113, 114 của Luật và
các quy định khác có liên quan đến áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
được thực hiện theo Điều 115, 116, 117 của Luật XLVPHC ...
4. Các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với
NCTN
4.1. Đối tượng áp dụng biện pháp thay
thế xử lý vi phạm hành chính
Luật quy định đối
tượng bị xử lý vi phạm hành chính (xử phạt hành chính và áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính) được chuyển sang áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành
chính trên cơ sở tính chất của từng biện pháp, cụ thể:
- Đối với biện pháp
nhắc nhở
:
Luật quy định chỉ
áp dụng biện pháp này đối với NCTN vi phạm hành chính mà theo quy định của pháp
luật phải bị xử phạt cảnh cáo.
- Đối với biện pháp
quản lý tại gia đình
Luật quy định áp dụng biện pháp này đối với đối tượng là NCTN từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi thực hiện hành vi trộm
cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà chưa đến mức bị truy cứu
trách nhiệm hình sự thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn quy định tại khoản 3 Điều 90 của Luật XLVPHC .
4.2. Điều kiện áp dụng biện
pháp thay thế xử lý xử lý vi phạm hành chính
Nhắc nhở và quản lý
tại gia đình là 2 biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính mang tính xã hội,
dựa vào chính đối tượng, cộng đồng và gia đình của NCTN vi phạm để thực hiện
giáo dục, quản lý đối tượng. Luật XLVPHC quy định các điều kiện bắt buộc mang
tính tự nguyện để một vụ việc bị xem xét xử lý vi phạm hành chính được chuyển
sang áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính có thể thực hiện được
như điều kiện NCTN phải thừa nhận về hành vi vi phạm là “tự nguyện khai báo,
thành thật hối lỗi về hành vi vi phạm của mình”. Luật quy định cụ thể như sau:
- Đối với biện pháp
nhắc nhở,
Luật quy định được thực hiện đối với NCTN vi phạm hành chính bị xử phạt khi có
đủ các điều kiện như:
+ Vi phạm hành
chính theo quy định bị phạt cảnh cáo.
+ NCTN vi phạm đã
tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi về hành vi vi phạm của mình.
- Đối với biện pháp
quản lý tại gia đình,
Luật quy định được
thực hiện với NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi trộm cắp,
lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn khi có đủ các điều kiện như:
+ NCTN vi phạm đã
tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi về hành vi vi phạm của mình.
+ NCTN có môi
trường sống thuận lợi cho việc thực hiện biện pháp này.
+ Cha mẹ hoặc người
giám hộ có đủ điều kiện thực hiện việc quản lý và tự nguyện nhận trách nhiệm
quản lý tại gia đình.
4.3. Thẩm quyền áp dụng biện pháp thay
thế xử lý vi phạm hành chính
Luật quy định giao
cho người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính có thẩm quyền xem xét chuyển
sang áp dụng biện pháp thay thế, cụ thể, như đối với biện pháp nhắc nhở được
giao cho người có thẩm quyền xử phạt quy định tại Chương II Phần thứ hai của
Luật; đối với biện pháp quản lý tại gia đình, Luật giao cho Chủ tịch UBND cấp xã
nơi có thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn.
4.4. Thủ tục xem xét áp dụng biện pháp
thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với NCTN
- Đối với biện pháp
nhắc nhở:
Luật quy định trong quá trình xem xét ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
theo thủ tục xử phạt quy định tại Mục 1 Chương III Phần thứ hai của Luật, người
có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính xét thấy vi phạm hành chính do NCTN
thực hiện nếu có đủ điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 139 thì quyết định
áp dụng biện pháp nhắc nhở.
- Đối với biện pháp
quản lý tại gia đình:
Luật quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã trong quá trình xem xét, quyết
định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo quy định tại Phần
thứ ba của Luật đối với đối tượng quy định tại khoản 3 Điều 90, nếu xét thấy có
đủ điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 140 của Luật thì quyết định áp dụng
biện pháp quản lý tại gia đình đối với đối tượng trong thời hạn từ 03 đến 06
tháng.
4.5. Thi hành biện pháp thay thế xử lý VPHC
- Đối với biện pháp
nhắc nhở,
Luật quy định người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quyết định áp dụng
biện pháp nhắc nhở đối với NCTN. Việc nhắc nhở được thực hiện bằng lời nói, ngay
tại chỗ và không phải lập thành biên bản để chỉ ra những vi phạm do NCTN thực
hiện.
- Đối với biện pháp
quản lý tại gia đình,
sau khi Quyết định áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình có hiệu lực, Chủ tịch
UBND cấp xã nơi ra quyết định giao cho cha mẹ hoặc người giám hộ của NCTN để tổ
chức thực hiện quyết định và phân công tổ chức, cá nhân nơi NCTN cư trú để phối
hợp với gia đình trong việc tổ chức và giám sát thực hiện. Trong thời gian quản
lý tại gia đình, NCTN được đi học hoặc tham gia các chương trình học tập hoặc
dạy nghề khác; tham gia các chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống tại
cộng đồng.
Ngoài ra, để bảo
đảm tính răn đe và đạt được mục đích của công tác giáo dục, khoản 5 Điều 140 quy
định trong thời gian quản lý tại gia đình nếu NCTN tiếp tục vi phạm pháp luật
thì Chủ tịch UBND cấp xã nơi ra quyết định áp dụng biện pháp quản lý tại gia
đình quyết định chấm dứt việc áp dụng biện pháp và xử lý theo quy định của pháp
luật.
G. ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
1. Về hiệu lực thi hành
Luật quy định thời
điểm có hiệu lực là từ ngày 01 tháng 7 năm 2013, trừ các quy định liên quan đến
việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân xem xét, quyết
định thì có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. Theo đó, kể từ ngày Luật
này có hiệu lực thi hành, các quy định liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính
của Pháp lệnh XLVPHC số 44/2002/PL-UBTVQH10, Pháp lệnh số 31/2007/PL-UBTVQH11
sửa đổi một số điều của Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 và Pháp lệnh số
04/2008/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh XLVPHC hết hiệu lực
thi hành, riêng đối với các quy định liên quan đến việc áp dụng các biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở chữa bệnh tiếp tục có hiệu lực đến hết
ngày 31 tháng 12 năm 2013.
2. Về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Với vai trò là cơ
quan chấp hành, tổ chức thực hiện pháp luật và cơ quan xét xử, Chính phủ và Tòa
án nhân dân tối cao có trách nhiệm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các
điều, khoản được giao trong Luật XLVPHC nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước,
bảo đảm các quy định được thực hiện nghiêm túc và thống nhất trong phạm vi cả
nước.
Luật XLVPHC có phạm
vi, đối tượng điều chỉnh rộng, để việc xây dựng các văn bản quy định chi tiết
thi hành Luật bảo đảm thống nhất và đồng bộ, Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành
Quyết định phê duyệt Kế hoạch triển khai thi hành Luật XLVPHC.
PHẦN IV.
TỔ CHỨC TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT XLVPHC
Để triển khai Luật
XLVPHC
các bộ, ngành, cơ quan liên quan
cần tập trung thực hiện một số công việc sau:
1. Tuyên truyền, phổ biến Luật XLVPHC
- Biên soạn, xuất
bản sách giới thiệu về Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Tổ chức tuyên
truyền, phổ biến Luật XLVPHC và các văn bản hướng dẫn thi hành trên các phương
tiện thông tin đại chúng nhằm nâng cao trách nhiệm, nhận thức của nhân dân và
nhất là đối với đội ngũ cán bộ làm công tác xử lý vi phạm hành chính.
- Tổ chức hội nghị
quán triệt triển khai Luật, đặc biệt là các nội dung mới so với Pháp lệnh hiện
hành, phục vụ tích cực cho việc triển khai Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Xây dựng chuyên
trang về Luật XLVPHC và tổ chức thực hiện Luật trên để cung cấp thông tin đầy
đủ, toàn diện về việc triển khai Luật, đồng thời liên tục cập nhật các hoạt động
mới trong quá trình triển khai Luật.
- Nghiên cứu, xây
dựng một số chuyên đề về Luật XLVPHC
đăng trên các tạp chí, báo để tuyên truyền, phổ biến các nội dung mang
tính chuyên sâu
2. Tổ chức các lớp tập huấn chuyên sâu về Luật XLVPHC
Nghiên cứu, xây dựng và phát hành sách và tài liệu khác phục vụ công tác tập
huấn chuyên sâu về Luật XLVPHC và các văn bản hướng dẫn thi hành cho cán bộ làm
công tác quản lý, cán bộ trực tiếp xử lý vi phạm hành chính, bảo đảm khi Luật có
hiệu lực thi hành sẽ được áp dụng chính xác, thống nhất trên toàn quốc.
3. Rà soát, hệ thống hóa và xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính
Ngay sau khi Luật
XLVPHC được thông qua, các bộ, ngành khẩn trương tổ chức rà soát văn bản quy
phạm pháp luật, lập danh mục văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ
để phù hợp với Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Để bảo đảm Luật XLVPHC được thực thi
ngay khi có hiệu lực, Chính phủ cầnchỉ đạo, phân công trách nhiệm xây dựng các
văn bản quy định chi tiết thi hành Luật XLVPHC, ví dụ như Nghị định của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định
về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính v.v..
4. Xây dựng các đề án triển khai thi hành Luật XLVPHC
Để triển khai các
quy định mới của Luật XLVPHC liên quan tới công tác quản lý nhà nước về xử lý vi
phạm hành chính, bên cạnh việc xây dựng các Nghị định, Chính phủ phải chỉ đạo
hình thành các Đề án để triển . Vì vậy, Đề án quản lý công tác thi hành pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính và Đề án cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi
phạm hành chính được khẩn trương nghiên cứu, hình thành ngay sau khi Luật được
thông qua, tạo cơ sở cho các cơ quan, cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt.
Thời gian thực
hiện:
Theo kế hoạch, các
hoạt động triển khai thực hiện Luật XLVPHC sẽ được thực hiện trong ba năm, từ
năm 2012 đến năm 2014.